Từ bim bim, snack đến oishi: Vì sao mỗi miền gọi món ăn vặt tuổi thơ này một kiểu?

Để nói về sự đa dạng của phương ngữ Việt Nam, thật sự không biết nên bắt đầu từ đâu, và để bàn cho đầy đủ có khi phải hết ngày. Tuy nhiên, có một cặp từ rất thông dụng mà hầu như bất kì cựu trẻ con nào cũng biết, nhưng nguồn gốc của chúng vẫn còn là một dấu chấm hỏi: bim bim và snack, hai từ thường dùng để chỉ các loại bánh ăn vặt giòn tan đựng trong bịch. Vì sao người Việt ở miền Bắc lại gọi đây là bim bim còn miền Nam lại chuộng từ snack?
Từ miến đến bim bim
Ngày nay, khi tìm đến bất cứ tiệm tạp hóa đầu ngõ nào ở Hà Nội và hỏi mua “bim bim,” có lẽ các cô các bác sẽ mặc định trả lời rằng: “Loại nào?” Không có định nghĩa chính xác thế nào mới được gọi là bim bim, nhưng trong ký ức của tôi, một gói bim bim chuẩn phải được bơm phồng hơi, đôi khi hơi còn nhiều hơn cả bánh bên trong. Bim bim thường mặn, đôi khi có chút ngọt, và phải giòn rụm tan ngay trong miệng.
Bim bim có thể làm từ bột gạo, bột bắp hay khoai tây, rồi được phủ nhiều loại gia vị khác nhau: từ quen thuộc như tôm, cua đến cầu kỳ, hiện đại như bò wagyu. Theo thời gian, “bim bim” đã trở thành một danh từ chung để gọi cả một dòng quà vặt. Thế nhưng, trên thị trường vẫn còn tồn tại một sản phẩm “Bimbim” với tư cách là danh từ riêng. Dó là bánh ống nhân kem Bimbim của công ty Hải Hà–Kotobuki. Đây chính là mấu chốt giải đáp câu đố về nguồn gốc của cụm từ “bim bim.”

Bim bim có thể được xem là một trong những sản phẩm đặc trưng của tạp hóa. Ảnh: Alberto Prieto.
Trong khi loại bánh nhân ngọt mang tên Bimbim không thật sự phổ biến, thì Snack Tôm Bimbim lại gắn bó với tuổi thơ của rất nhiều người. Đây cũng là sản phẩm bánh giòn đóng gói đầu tiên ở miền Bắc, ra đời từ liên doanh Haiha-Kotobuki.
Ngày nay Hải Hà được biết đến qua các sản phẩm bánh kẹo, bánh Trung Thu, nhưng tiền thân của nhãn hàng này là một cơ sở sản xuất miến. Tháng 12, 1960, theo chỉ đạo của chính phủ miền Bắc, Xưởng miến Hoàng Mai thành lập để sản xuất miến từ đậu xanh, đáp ứng nhu cầu lương thực của nhân dân.
Vào thập niên 1960, doanh nghiệp thử nghiệm và sản xuất thành công sản phẩm xì dầu và tinh bột ngô. Năm 1966, nhà máy đổi tên thành Nhà máy thực nghiệm thực phẩm Hải Hà, cho ra đời nhiều sản phẩm lương khô khác như viên đạm, chao, bột dinh dưỡng trẻ em, v.v.. Năm 1970, theo chỉ thị của Bộ Lương thực và Thực phẩm (nay là Bộ Công Thương), Hải Hà tiếp quản phân xưởng kẹo của Hải Châu và được đổi tên thành Nhà máy Thực phẩm Hải Hà. Năm 1992, Công ty Bánh kẹo Hải Hà chính thức ra đời, và 1 năm sau đó, thành lập liên doanh Haiha-Kotobuki với Nhật Bản, lấy trụ sở tại 25 Trương Định.

Một trong những loại quà vặt ra đời sớm nhất ở miền Bắc.

Sản phẩm duy nhất của Haiha-Kotobuki hiện tại với cái tên Bimbim.
Liên doanh tiếp cận thị trường với danh tiếng đã có sẵn của Hải Hà và dây chuyền công nghệ mới từ Nhật. Một trong những sản phẩm đầu tiên sinh ra trong giai đoạn chuyển đổi này là Snack Tôm Bimbim. Về lý do đằng sau cái tên “Bimbim,” bà Nguyễn Thị Lệ Thủy, giám đốc thời đó, kể trong một thước phim tư liệu: “Khi mà đặt là chúng tôi sẽ làm cái snack, [chúng tôi bàn] thế thì bây giờ đặt tên là cái gì? Tôi bảo ‘trẻ con nó thích ô tô lắm, lúc nào nó cũng thích bấm còi bim bim, thôi ta cứ lấy cái tên Bimbim.’”
Nương theo ý tưởng ban đầu ấy, những mẩu quảng cáo Bimbim sau này chiếu trên TV thường có nhân vật là những chiếc ô tô phát âm thanh. Đã có thời Bimbim giữ vị thế dẫn đầu thị trường snack đóng gói miền Bắc, để lại dấu ấn văn hóa đặc biệt khiến mọi loại snack sau này đều được gọi chung là bim bim. Nhưng rồi khi các đối thủ liên tiếp tung ra sản phẩm mới, hình ảnh thương hiệu dần phai nhạt, cái tên “Bimbim” từ một nhãn hiệu riêng rơi vào dĩ vãng.
Vinabico và snack cua xanh thần thoại
Một trong những tranh cãi tồn tại lâu đời nhất trên cõi mạng Việt là diễn ngôn xoay quanh cách gọi snack hay bim bim. Cư dân mỗi miền gọi một kiểu, luôn thắc mắc vì sao bên kia không giống mình, thường hay đi vào vết xe đổ phân biệt vùng miền. Tôi nhớ đã từng đọc những bình luận kiểu này từ khi còn nằm vùng trong những forum thời những năm 2000, và ngạc nhiên thay, khi cộng đồng mạng di cư sang Facebook hay Threads, tranh cãi này vẫn sống khỏe.
Có lẽ những ai từng múa phím về chủ đề này sẽ hơi ngạc nhiên khi biết rằng thực ra câu chuyện đằng sau hai cách gọi này giống nhau gần 90%: một công ty đến thị trường sớm, sản xuất bánh, rồi sau đó nhãn hàng bị “chết tên.” Ở miền Nam, phần lớn là khu vực Sài Gòn và các tỉnh Đông Nam Bộ, người ta gọi đơn giản bánh đóng bịch là “snack.” Cũng có nhiều dị bản khác tùy theo độ cợt nhả của người nói, như bánh snack, xì nách, sờ nách, hay thậm chí bánh nách. May mắn thay tôi chưa thấy tiệm tạp hóa nào dịch nước đôi sang tiếng Anh cho khách nước ngoài thành “armpit cake.”

Minh họa: Vent Hoang.
Cách gọi này có lẽ đến từ sự ra đời của loại bánh snack quốc dân mang hình chú cua nhỏ xinh, được biết đến với cái tên chân phương “Snack Cua,” thuộc nhà sản xuất Vinabico. Tôi vừa ngạc nhiên vừa không ngạc nhiên lắm khi tìm về giai thoại này, vì câu chuyện gần gũi hơn tôi nghĩ.
Vinabico là một doanh nghiệp bánh kẹo gốc Sài Gòn, thành lập từ năm 1974, lấy trụ sở ở Bình Thạnh. Ngày ấy ở thành phố, có hai nhãn hiệu khá nổi đều lấy logo hình con thiên nga, một là Vinabico, hai là bột giặt Viso. Ông Trương Hy, nhà sáng lập, đặt cái tên đơn giản với ý nghĩa “Việt Nam Bánh Kẹo.” Năm 1978, Vinabico được bàn giao cho Nhà nước, rồi đến 1993, thành lập liên doanh với công ty Nhật Kotobuki, tương tự như Hải Hà ở miền Bắc.
Sử dụng nguyên liệu chính là bột gạo và áp dụng công nghệ dùng giấy nhôm đóng bịch, liên doanh ra mắt sản phẩm mới “Bánh Snack Cua” năm 1993. Hỗn hợp bột gạo và bột bắp được đúc khuôn hình con cua rồi xử lý nhiệt rồi xóc lên cùng bột gia vị đậm chất umami. Bây giờ thường tôi chỉ cho cả miếng vào miệng nhai, nhưng không hiểu sao khi nhỏ rất thích cắn rứt từng càng cua rồi mới nhai đến mai cua. Liếm láp phần bột gia vị mặn mòi “ngon trên từng ngón tay” cũng là một nghi thức không thể thiếu mỗi lần chén xong bịch snack. Phần bao bì thiết kế với hai màu chủ đạo xanh ngọc vào đỏ cam, phía dưới là một con cua luộc đỏ au, còn bên trên là từ “Snack” cỡ lớn chễm chệ ngay trung tâm — đây chính là nguồn cơn khiến từ “snack” đã len lỏi vào tiềm thức của hàng thế hệ người ăn snack miền Nam.

Một mẩu tin vắn trên báo nhân dịp ra mắt Snack Cua lần đầu tiên năm 1993. Ảnh tư liệu: Instagram nikoskhanh2022.

Bao bì gốc của Snack Cua.
Năm 2003, Vinabico mua lại cổ phần từ Kotobuki và vẫn tiếp tục đà kinh doanh ổn định xuyên suốt thập niên 2000, cho đến đầu thập niên 2010. Năm 2012, Kinh Đô thâu tóm 51% cổ phần Vinabico và cuối cùng sở hữu toàn bộ cổ phần của công ty. Đến 2015, Kinh Đô chính thức xóa bỏ tư cách pháp nhân độc lập của Vinabico, và hình ảnh chú thiên nga trắng quen thuộc biến mất hoàn toàn trên bịch snack cua. Ngày nay, Snack Cua vẫn hiện diện tại các điểm bán lẻ trên toàn quốc dưới thương hiệu Kinh Đô, dù với hình hài có khác biệt chút đỉnh.
Oishi, nhân tố bí ẩn từ bên kia Biển Đông
Phần lớn những đối thoại về tên gọi bim bim hay snack thường chăm chăm vào Hà Nội và Sài Gòn, hai thị trường bán lẻ lớn nhất nước ta, nhưng người ta hay quên đi sự có mặt của một cái tên cộm cán trong làng bánh snack là Oishi. Với những ai sinh ra ngoài địa giới các đô thị loại I, nhất là vùng quê miền Trung hay miền Tây, nhiều khả năng bạn đã lớn lên với cách gọi “oishi” khi đi mua snack.
“Oishi” là một từ tiếng Nhật có nghĩa đơn giản là “ngon,” nên cũng không vô lý nếu ta mặc định Oishi là một nhãn hàng Nhật Bản; tuy nhiên, ít ai biết rằng thương hiệu snack trường tồn này có gốc gác từ Philippines.
Một trong số những loại snack kinh điển nhất của tuổi thơ Việt.
Năm 1974, Carlos Chan, một thương nhân người Philippine gốc Hoa thành lập nhãn hiệu Oishi tại quê nhà, mở đường đưa thực phẩm đóng gói bằng công nghệ Nhật vào đảo quốc. Oishi đạt được nhiều thành công nhất định và phát triển sang nước ngoài, như Trung Quốc, Myanmar, và cả Việt Nam. Oishi đến nước ta vào năm 1997 và được đón nhận nồng nhiệt. Vô tình, cái tên thuần Nhật gây được thiện cảm với người tiêu dùng Việt, vốn luôn đề cao sản phẩm và văn hóa Nhật Bản, hay, trong trường hợp của Oishi, sản phẩm có vẻ “hơi hơi” Nhật.
Đến Việt Nam, Oishi lập chiến lược len lỏi vào thị trường qua những điểm bán lẻ gần gũi như tiệm tạp hóa địa phương và căng tin trường học, đưa bánh snack đến ngay trước mặt nhóm khách hàng chủ chốt nhất: trẻ em. Chiến thuật này đem lại hiệu quả, và ngày nay Oishi vẫn tồn tại phây phây trên thị trường snack quốc gia đầy cạnh tranh, và đứng top đầu tại phân khúc vùng quê, thị trấn, và đô thị loại II. Và đương nhiên, người dân vẫn gọi những gói bánh này với cái tên thân thuộc: oishi.
Phản hồi